CHIẾN-THẮNG AN-LỘC 1972 : Phần I (Chương 1-5)

CHƯƠNG 4

TRẬN CHIẾN AN LỘC

anloc_chuong3-2

1 . MỞ MÀN TRẬN CHIẾN AN LỘC

Tất cả các cánh quân của Quân Đoàn Cộng Sản Bắc Việt đều dồn về An Lộc, Công Trường 5 từ mặt Bắc đánh xuống, Công Trường Bình Long và Công Trường 9 ép sát hai mặt Đông Tây, Công Trường 7 chận phía Nam, vừa thiết lập các “Chốt” khóa dọc trên Quốc Lộ 13, vừa tung quân tiến đánh các mục tiêu giáp ranh Tỉnh Bình Long và Tỉnh Tây Ninh, như căn cứ Hoả Lực Tống Lê Chân (14 cây số Tây Nam An Lộc). Ngoài những đại đơn vị chính quy Cộng sản Bắc Việt, lực lượng địch còn có thêm 2 Trung Đoàn Địa Phương biệt lập (Q.761 và 101), trong trận chiến này.

Quân địch đang bủa lưới bao vây An Lộc đã tạo nhiều áp lực liên tục cho quân trú phòng. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải đối đầu với một quân số địch đông hơn gấp nhiều lần, với hơn một trăm Chiến Xa và các Sư Đoàn Pháo và hoả tiễn đủ loại.

Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (khoảng 2450 Chiến Binh) và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, (quân số 550), được trực thăng vận đến tăng viện; Sư Đoàn 21 Bộ Binh, cùng với Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Việt Nam Cộng Hoà từ vùng đồng bằng Sông Cửu Long (Vùng 4 Chiến thuật),quân số khoảng 12,000 chiến binh, được điều động đến Lai Khê để khai thông Quốc Lộ 13, mục đích giải vây An Lộc.

2 . MẶT TRẬN AN LỘC

CUỘC BAO VÂY, PHÁO KÍCH và TẤN CÔNG CỦA CỘNG QUÂN VÀO CÁC MẶT ĐÔNG, TÂY, NAM, BẮC TỈNH LỴ BÌNH LONG.

Sau khi căn cứ hoả lực Cầu Cần Lê rút lui, toàn bộ mặt phía Bắc An Lộc bị bỏ trống, vòng đai phòng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà lần lần bị thu hẹp về trong chu vi Thị Trấn An Lộc.

Tướng Lê văn Hưng đã nhận biết địch đang di chuyển quân bủa vây tứ phía:

  • Mặt Bắc đang bị áp lực của Công Trường 5;
  • Mặt Đông đang bị áp lực của Công Trường Bình Long;
  • Mặt Tây đang bị áp lực của Công Trường 9;
  • Mặt Nam có Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt.

Riêng mặt phía Nam mặc dù chưa trực tiếp phát hiện, nhưng căn cứ vào sự chạm trán giữa đoàn quân giải toả của Trung Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, và cái chết của Đại Tá Trương Hữu Đức,Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà tại vùng Quận Chơn Thành Xã Tàu Ô, (18 cây số Nam An Lộc) đã chứng minh là phía Nam cũng đã có đơn vị cấp Sư Đoàn của địch, hình thành tuyến phục kích ngăn chận viện quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phát xuất từ căn cứ Lai Khê hướng về An Lộc. (xem sơ đồ số 5)


anloc_chuong4-1

Tướng Hưng nhận thấy lực lượng Cộng quân bủa vây bằng những đơn vị lớn, cấp Quân Đoàn, trong khi phía lực lượng phòng thủ chỉ mới có:

  • Trung Đoàn 7(-) thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang hoạt động trong vùng trách nhiệm chu vi, 3 cây số phía Đông (phi trường Quản Lợi), và 4 cây số phía Tây An Lộc, được lệnh thu quân về trấn thủ mặt phía Tây thành phố.
  • Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, được trực thăng vận từ Tây Ninh đổ xuống An Lộc ngay trong buổi chiều ngày 06, và suốt ngày 07 tháng 04 năm 1972 trấn giữ mặt phía Bắc và phía Đông thành phố.
  • Bộ Chỉ Huy (nặng) Sư Đoàn, do Chuẩn Tướng Lê văn Hưng chỉ huy, và Đại Đội 5 Trinh Sát trấn cứ điểm Thành Đỗ Cao Trí.
  • Lực Lượng diện địa Tiểu Khu Bình Long (Địa Phương Quân) cộng chung khoảng 400 tay súng phòng thủ mặt phía Nam.

Tổng cộng quân số phòng thủ, ở giai đoạn đầu, có khoảng 3,200 chiến binh Việt Nam Cộng Hoà.

Chiếu theo “Bản điều nghiên của địch” (lúc thiết kế trận đánh), về lực lượng phòng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chỉ có: Bộ Chỉ Huy nhẹ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh và khoảng 500 quân thuộc lực lượng diện địa của Tiểu Khu Bình Long, với lực lượng vòng ngoài có Trung Đoàn 7 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh, quân số khoảng 1,500.

Địch quân lượng định tương quan lực lượng đôi bên quá chênh lệch (Quân Cộng Sản Bắc Việt: Trên 4 Sư Đoàn (CT); Việt Nam Cộng Hoà: 6 Tiểu Đoàn, nên Trung Ương Đảng Bộ Cộng Sản Hà Nội, tưởng là “dễ nuốt”, và đã huyên hoang tuyên bố trên đài phát thanh Hà Nội cũng như ra lệnh cho thuộc cấp phải chiếm cho bằng được An Lộc trước ngày 20 tháng 04 năm 1972.

Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân có 3 Tiểu Đoàn: 31, 36, và 52, được Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ định trấn thủ trên một tuyến dài hơn 4 cây số, từ phía Bắc kéo dài đến phía Đông An Lộc, (chỉ với 2 Tiểu Đoàn 31 và 52, còn Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân phải đảm trách lập tuyến phục kích án ngữ, cách Thị Xã An Lộc 1 cây số về hướng Đông, trên lộ trình từ phi trường Quản Lợi dẫn vào An Lộc).

Trung Đoàn 7 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh trách nhiệm phòng thủ phía Tây và một phần phía Nam, với 2 Tiểu Đoàn còn nguyên vẹn, Tiểu Đoàn khác đã thất thoát hơn phân nửa quân số (vị Tiểu Đoàn Trưởng tử trận) trong những ngày đầu giao tranh với Công Trường Bình Long và một thành phần của Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt tại phía Đông, vùng phi trường Quản Lợi (3 cây số Đông An Lộc).

Các đơn vị Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long (không đủ quân số), có trách nhiệm trấn thủ tuyến phía Nam An Lộc .

Trong tuần lễ từ 06 đến 12 tháng 04 năm 1972, Cộng quân gửi tiền sát viên pháo binh xâm nhập những cao điểm xung quanh Tỉnh lỵ, để quan sát và điều chỉnh các “toạ độ tiên liệu” như: Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh (cũ), Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long, các bãi đáp trực thăng, các ngã tư đường, và một vài địa điểm khác v..v..

Nhận thấy lực lượng quân phòng thủ còn quá yếu so với quân địch, Tướng Hưng mật điện về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 xin thêm quân tăng viện cấp thời trước khi Cộng quân mở màn cuộc tấn công ”rất gần kề”.

Đơn vị được Tướng Hưng xin tăng viện là Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 cơ hữu, do Đại Tá Mạch văn Trường chỉ huy.

Trung Đoàn 8, sau trận Snoul, vừa mới được bổ sung và chấn chỉnh đội ngũ, là Trung Đoàn duy nhất còn lại của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đóng quân tại cứ điểm Dầu Tiếng (Đồn điền Michelin cũ của Pháp), thuộc quận Trị Tâm Tỉnh Bình Dương, đang có trách nhiệm ngăn chận địch từ biên giới Việt Cambodia, theo hành lang sông Sài Gòn, xâm nhập vào Tỉnh Bình Dương đến Sài Gòn.

Ngay sau đó, Trung Đoàn 8 Bộ Binh được lệnh tức tốc chuẩn bị và được trực thăng vận ngay vào trận địa, tại địa điểm đổ quân (khoảng 3 cây số Nam An Lộc). Cuộc đổ quân được hoàn tất vào trưa ngày 12 tháng 04 năm 1972.

Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn cùng với 2 Tiểu Đoàn được trực thăng vận đổ xuống trước (tại những “trảng” trống, không mấy thích hợp cho kế hoạch trực thăng vận) vào ngày 11 tháng 04, và tiếp theo ngày 12 tháng 04 đổ tiếp thêm Tiểu Đoàn còn lại và Đại Đội 8 Trinh Sát.

Tính đến ngày 12 tháng 04 năm 1972, quân phòng thủ được tăng thêm 3,000 (2,500 quân của Trung Đoàn 8, thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh + 600 quân của Chiến Đoàn 52, thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, (từ Căn Cứ Hoả Lực Cầu Cần Lê mới rút về).

Trung Đoàn 8 Bộ Binh đổ quân, đợt 1 và đợt 2, đều được Bộ Chì Huy Sư Đoàn 5 khuyến cáo, khi di chuyển đến tuyến phòng ngự, phải ôm bọc theo vòng đai bên ngoài, từ Nam lên Bắc, để tránh thiệt hại do pháo của Cộng quân đang “rót” điều chỉnh vào Thị Xã.

Như vậy, toàn bộ 2 Trung Đoàn cơ hữu còn lại của Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã có mặt tại chiến trường An Lộc, (Trung Đoàn 9, đã bị tan rã sau trận Lộc Ninh).

Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh, do Đại Tá Mạch Văn Trường chỉ huy, được giao phó trách nhiệm trấn giữ mặt chính Bắc và một phần phía Tây.

Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân (-),do Trung Tá Nguyễn Văn Biết chỉ huy (được thu ngắn bớt tuyến phòng thủ), lãnh trách nhiệm trấn thủ phía Đông.

Trung Đoàn 7 (-) thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh, do Trung Tá Lý Đức Quân chỉ huy, trấn giữ mặt phía Tây.

Lực lượng diện đia của Tiểu Khu Bình Long + thành phần của Chiến Đoàn 52 (-) thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, chịu trách nhiệm trấn thủ mặt phía Nam.

Như vậy, mỗi mặt Đông, Tây, Nam, Bắc đều có một lực lượng cấp gần Trung Đoàn trấn thủ, mạnh nhất là tuyến phòng thủ phía Bắc có Trung Đoàn 8 Bộ Binh với 2,500 chiến binh chủ lực, yếu nhất là tuyến phòng thủ phía Nam của Tiểu Khu Bình Long (vòng ngoài Địa Phương Quân).

Đúng như dự liệu của Tướng Hưng, phòng tuyến phía Bắc bị Cộng quân cường kích “tấn công” mạnh nhất, khi mở màn trận chiến.

3 . CUỘC ĐIỆN ĐÀM GIỮA TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN MINH- TƯ LỆNH CHIẾN TRƯỜNG,
VÀ CHUẨN TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG- TƯ LỆNH MẶT TRẬN AN LỘC.

Chiếu theo tin tình báo từ các toán viễn thám Việt Nam Cộng Hoà và từ một cán binh hồi chánh thuộc đại đội trinh sát của Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt: Từ đầu tháng 01 năm 1972, đến cuối tháng 03 năm 1972: các Công Trường của địch bắt đầu di chuyển áp sát biên giới Việt Cambodia: Cộng trường 5 từ vùng Snoul di chuyển theo Quốc Lộ 13 về phía Nam, án binh cách Lộc Ninh 15 cây số về phía Bắc, Công Trường 7, Công Trường 9 và một đơn vị cấp Sư Đoàn đang ẩn phục trong vùng “Lưỡi Câu” giáp biên giới Việt Cambodia (15 cây số Tây Bắc An Lộc).

Khi mặt trận Lộc Ninh vừa mới bắt đầu, với sự tan rã nhanh chóng của Đại Đội 9 Trinh Sát thuộc Chiến Đoàn 9 Bộ Binh vào chiều ngày 04 tháng 04, và lực lượng xung kích của Thiết Đoàn 1 (-) vào ngày 05 tháng 4 năm 1972, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 3/Quân Khu III đã lượng định địch đã tung quân vào chiến trường ít ra từ 3 Sư Đoàn (CT) trở lên (Cấp Quân Đoàn).

Vì đã có nguồn tin tình báo khả tín như thế, nên khi vừa mới nghe điện thoại của Tướng Hưng gọi từ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh, (căn cứ Lai Khê), tiếp chuyện với Tướng Minh, đang kinh lý tại Tiểu Khu Bình Dương, trình báo về tình hình đột biến tại mặt trận Lộc Ninh…

…. Sau khi báo cáo tình hình chiến sự, Tướng Hưng nói:

– Tôi sẽ lấy trực thăng bay lên Lộc Ninh để quan sát và thẩm định tình hình…

– Tướng Minh ngăn lại , .. Không còn kịp nữa .

Tướng Minh nói tiếp :

– Sau Lộc Ninh, chúng nó sẽ tiến đánh An Lộc !!!, vậy Anh nên dùng thời gian còn lại, di chuyển tức khắc Bộ Chỉ Huy “Nặng” Sư Đoàn đến An Lộc càng sớm càng tốt, Quân Đoàn sẽ cung cấp đủ trực thăng theo yêu cầu của Sư Đoàn … Tôi sẽ cho lệnh “bốc” Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân từ Tây Ninh, đổ thẳng vào An Lộc cho Anh.

Cuộc điện đàm chấm dứt vào lúc 1 giờ 30 trưa ngày 06 tháng 04 năm 1972.

Tướng Hưng liền cho lệnh toàn Bộ Chỉ huy Sư Đoàn và cấp tốc thông báo cho toán Cố vấn Mỹ chuẩn bị di chuyển lên Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Đoàn, do Đại Tá Lê Nguyên Vỹ đang chỉ huy tại An Lộc .

Sau cuộc điện đàm với Tướng Hưng, Trung Tướng Minh chỉ thị cho Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh, Sĩ Quan Phụ Tá Hành Quân, gọi về bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 tại Tỉnh Biên Hoà, cho triệu tập phiên họp khẩn bộ tham mưu cao cấp Quân Đoàn.

Khi trực thăng của Trung Tướng Minh về đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, tại phòng họp đã có mặt các giới chức quan trọng như: Tư Lệnh Phó, Tham Mưu Trưởng, Sĩ Quan Trưởng Phòng Nhì, Trưởng Phòng 3, Trưởng Phòng 4, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn, Đại Tá Trương Hữu Đức, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh. Tất cả đã túc trực sẵn tại phòng họp, để nghe vị Tư Lệnh kể lại tình hình chiến sự của Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại Lộc Ninh, và nhận chỉ thị thi hành: a/ Dồn hết nỗ lực, ưu tiên cung cấp đủ trực thăng chuyển vận Bộ Tư Lệnh (nặng) của Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào An Lộc; b/ Trực thăng vận Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân từ Tây Ninh đổ thẳng vào An Lộc; c/ Thiết lập kế hoạch khai thông Quốc lộ 13; d/ Phòng 4 Quân Đoàn nghiên cứu kế hoạch tiếp tế cho chiến trường An Lộc.

Sau khi trực thăng vận Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân vào An Lộc, Tướng Minh nhận thấy lực lượng phòng thủ vẫn còn quá yếu nên Ông bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yết kiến Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên, để tường trình tình hình chiến sự tại chiến trường Quân Khu 3, nhất là tại mặt trận An Lộc, và xin thêm quân Tổng Trừ Bị còn lại của Bộ Tổng Tham Mưu.

Nói về lực lượng Tổng Trừ Bị của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, chỉ còn lại Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Sư Đoàn Nhảy Dù (-) và Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến đã được điều động ra Vùng 1 Chiến thuật, và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, còn đang hoạt động viễn thám trong vùng Tỉnh Tây Ninh (thuộc Quân Khu 3).

Với quyền hạn của Tổng Tham Mưu Trưởng, lực lượng duy nhất còn lại là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho vị Chỉ Huy Trưởng, Trung Tá Phan Văn Huấn gom hết các toán thám sát tập trung về căn cứ Trảng Lớn (Tỉnh Tây Ninh), chờ trực thăng bốc đi tham dự “chiến tường mới“. Đây là lần đầu tiên Anh Em Biệt Kích Dù mới có dịp tương phùng 4 Đại Đội và 4 Toán Trinh Sát, gặp nhau đầy đủ, cùng một lúc, tay bắt mặt mừng, dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, chờ trực thăng bốc về căn cứ Lai Khê (Tỉnh Bình Dương), để tham dự một chiến trường có thể là “nặng độ” trong tương lai.

Riêng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, đang trách nhiệm giữ an ninh cho Dinh Độc Lập còn phải chờ lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Vài giờ sau đó, sau khi Đại Tướng Cao văn Viên trình với Tổng Thống Thiệu, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cũng được điều động đến Lai Khê ngay sau đó, và được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 Quân Khu 3 chỉ định cùng với Trung Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, do Đại Tá Lê Minh Đảo (vừa mới nhậm chức Tư Lệnh Sư Đoàn), trong tay chỉ còn nguyên vẹn có một Trung Đoàn cơ hữu, đang ì ạch lãnh trách vụ khai thông Quốc Lộ 13 từ Lai khê đến Quận Chơn Thành, (giai đoạn đầu), dưới sự yểm trợ của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh, do Đại Tá Trương Hữu Đức chỉ huy. Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 52/Sư Đoàn 18 Bộ Binh, được điều động đến thay thế Lữ Đoàn 1 Dù (vừa mới rút đi, để giữ an ninh cho Dinh Độc Lập (1).

Lực lượng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, giờ này chỉ còn lại có Quân Đoàn 4 là còn nguyên vẹn 3 Sư Đoàn: Sư Đoàn 7 Bộ Binh trách nhiệm An Ninh Lãnh Thổ vùng Tiền Giang, Sư Đoàn 9 Bộ Binh, trách nhiệm yểm trợ An Ninh Lãnh Thổ các Tỉnh Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc (Vùng Núi Thất Sơn), Sư Đoàn 21 Bộ Binh, ngoài việc đảm trách An Ninh Lãnh Thổ các Tỉnh và Thị Xã Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mâu, Chương Thiện, Rạch Giá, còn đang dàn quân xâm nhập khu rừng “TRÀM” U Minh Thượng, U Minh Hạ, và phải đương đầu với một đơn vị cấp Sư Đoàn của Địch (Sư Đoàn U-Minh) đang ẩn hiện trên 3 Tỉnh Cà Mâu, Rạch Giá và Chương Thiện.

Tính đi tính lại, Quân Đoàn 4/Quân Khu IV, do Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Tư Lệnh, cố gắng chia xẻ những khó khăn “thiếu quân“ của Quân Khu 1, và Quân Khu 3, tối đa có thể rút bớt đi 1 Sư Đoàn và 1 Trung Đoàn Bộ Binh, để tăng cường cho một trong hai Quân Khu, đang bộc phát chiến trận.

Các đại đơn vị này là các thành phần ưu tú nhất của Quân Đoàn 4. Đó là toàn bộ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, do Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư Lệnh, và Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh, do Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy. (Trung Tá Cẩn, trước đây là một trong Ngũ Hổ Tướng Miền Tây của Sư Đoàn 21 Bộ Binh, khi Trung Tướng Minh còn là Chuẩn Tướng, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, vào năm 1965).

Về Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã hứa tăng phái cho Quân Khu 1, do Tướng Hoàng xuân Làm làm Tư Lệnh (khi Cộng quân xua quân qua xâm lấn vùng địa đầu giới tuyến).

4. CUỘC HỌP HỘI ĐỒNG AN NINH QUỒC GIA (Tại Phủ Tổng Thống)

Khi mặt trận Quân Khu III bùng nổ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho lệnh triệu tập “Hội Đồng An Ninh Quốc Gia” để duyệt xét lại tình hình chiến sự trên toàn quốc (đặc biệt là tại Quân Khu III và Quân Khu I). Ngày 09 tháng 04 năm 1972, cả 4 vị Tư Lệnh 4 Quân Khu được Tổng Thống Thiệu triệu hồi về họp tại dinh “Độc Lập” để được nghe trình về tình hình chiến sự từng Vùng đang xãy ra cuộc Tổng Công Kích của Cộng quân.

Cuộc họp quan trong lần này gồm có Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (Tổng Tư Lệnh Quân Đội), Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (Thủ Tướng Chính Phủ kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng), Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà), Trung Tướng Đặng Văn Quang (Cố Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống), và 4 Vị Trung Tướng Tư Lệnh 4 Quân Khu/Vùng Chiến Thuật.

Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III, được thuyết trình đầu tiên trước Hội Đồng An Ninh Quốc Gia về tình hình chiến sự mới bộc phát của Quân Khu 3: Tướng Minh thuyết trình về tình hình “ĐỊCH”: Được biết địch có 3 Sư Đoàn Quân Chính Quy Cộng Sản Bắc Việt, 1 Sư Đoàn của Cục R (tân lập) và thêm 2 Trung Đoàn Địa Phương; chúng âm mưu dứt điểm An Lộc trước ngày 20 tháng 04 năm 1972 để ra mắt cái Chính Phủ có tên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và sau đó trên đà thừa thắng tiến chiếm luôn Thủ Đô Sài Gòn, là mục tiêu cuối cùng của Chiến Dịch được gọi là NGUYỄN HUỆ; về Lực Lượng của Quân Đoàn 3, có 3 Sư Đoàn chủ lực, được phân chia phòng thủ như sau :

* Sư Đoàn 5 Bộ Binh, do Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng chỉ huy, đang có mặt tại An Lộc, từ ngày 07 tháng 04 năm 1972. Tướng Hưng chỉ huy thống nhất các lực lượng hiện có, lập một vòng đai phòng thủ, với Trung Đoàn 7 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh cơ hữu, được cắt cử trấn thủ phía Tây thành phố, 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 7, đang trấn thủ tại phi trường Quản Lợi (3 cây số phía Đông An Lộc), vừa mới đụng trận với Cộng Quân (cấp Trung Đoàn), đã bị thiệt hại khá nặng, (Tiểu Đoàn Trưởng bị tử thương), và hiện còn đang kẹt lại giữa trận chiến, Trung Đoàn 9 Bộ Binh và Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, đã bị một lực lượng Cộng quân đông đảo (cấp Sư Đoàn) tràn ngập, và Quận Lộc Ninh đã thất thủ từ ngày 07 tháng 04 năm 1972. Ngay ngày 07 tháng 04 năm 1972, Quân Đoàn đã trực thăng vận Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân từ Tây Ninh đổ vào An Lộc. Như vậy, cho tới giờ này, lực lượng trấn thủ, chỉ mới có 5 Tiểu Đoàn quân chính quy và khoảng gần 2 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân,Lực Lượng của Tiểu Khu Bình Long trấn thủ, phải chống trả với 4 Sư Đoàn của Cộng quân đang bủa lưới bao vây An Lộc. Còn Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang chuẩn bị tăng viện cho An Lộc, sẽ khởi sự đổ quân vào ngày 11 tháng 04 năm 1972.

* Sư Đoàn 18 Bộ Binh, do Vị Tư Lệnh mới nhậm chức, Đại Tá Lê Minh Đảo, chỉ còn lại trong tay có 1 Trung Đoàn (Trung Đoàn 48), và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đang khai thông Quốc Lộ 13, hướng về An Lộc, và cách đây một hôm, được tin Vị Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh, Đại Tá Trương Hữu Đức, đang bay chỉ huy, bị trúng đạn của Cộng quân tử trận, (trên vùng 25 cây số Nam An Lộc). Trung Đoàn khác của Sư Đoàn 18 Bộ Binh (Trung Đoàn 52), đang trú đóng tại căn cứ hoả lực cầu Cần Lê (15 cây số Tây Bắc An Lộc), đã được lệnh phá huỷ hết các chiến cụ nặng, chỉ còn Bộ Binh rút lui; Trung Đoàn này còn đang chạm trán khá nặng với 2 trung Đoàn Quân Cộng Sản Bắc Việt trên đường triệt thoái, cho đến nay vẫn còn giao tranh, chưa biết kết quả ra sao!!!. Còn lại Trung Đoàn 43, thì được xé lẻ từng Tiểu Đoàn, để đảm trách an ninh các vị trí cần thiết.

* Sư Đoàn 25 Bộ Binh: Trung Đoàn 49, vừa bị một lực lượng Địch cấp Sư Đoàn, có chiến xa yểm trợ phục kích trên Quốc Lộ 22, khi trên đường triệt thoái từ căn cứ hoả lực Thiện Ngôn (23 cây số Bắc Tỉnh Tậy Ninh) về tăng cường thiết lập vòng đai bảo vệ Tỉnh Tây Ninh, thiệt hại khá nặng, 2 Trung Đoàn còn lại, do Đại Tá Lê văn Tư Tư Lệnh Sư Đòan chỉ huy, đang được điều động đến để giải tỏa áp lực của Cộng quân.

Vì tình hình chiến sự, và địa thế Tỉnh Tây Ninh, nằm sát hành lang xâm nhập của Cộng quân từ biên giới Việt Cambodia nên Quân Đoàn không thể cắt bớt lực lượng của Sư Đoàn 25 Bộ Binh để tăng cường cho mặt trận An Lộc được, dù chỉ 1 Trung Đoàn.

Với tình hình và áp lực quân địch đang bổ vây An Lộc, Trung Tướng Minh đã đệ trình về Bộ Tổng Tham Mưu, xin thêm quân tổng trừ bị tăng viện, và đã được Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, cho rút Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù từ vùng hoạt động trong lãnh thổ Tỉnh Tây Ninh về, và trình lên Tổng Thống xin cho rút Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù để tăng cường cho chiến trường Quân Khu 3.

Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đã được đặt thuộc quyền sử dụng của Quân Đoàn 3/Quân Khu III từ ngày 07 tháng 04 năm 1972, và đang cùng Trung Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh dưới sự yểm trợ của Thiết Đoàn 5 ky binh (-) và phi pháo hùng hậu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã vượt qua chốt “Bầu Bàng” (7 cây số Bắc căn cứ Lai Khê), xuyên qua Quận Lỵ Chơn Thành, 25 cây số Nam An Lộc), đến vùng “suối Tàu Ô” (12 cây số Bắc Quận Chơn Thành).

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù còn đang thu quân, tập trung về vùng tiền trạm hậu cứ tại căn cứ Trảng Lớn,(2 cây số Bắc Tỉnh Tây Ninh). Cho đến ngày 14 tháng 04 mới được bốc về căn cứ Lai Khê, sau đó được di chuyển về hậu cứ chánh, căn cứ “Suối Máu”( Tỉnh Biên Hoà), để chuẩn bị hành trang chiến đấu “lâu dài” ở một chiến trường được xem như “nặng độ“ (được trực thăng vận đổ quân an toàn vào An Lộc ngày 16 tháng 04 năm 1972).

Theo Tướng Minh nhận xét, mặc dầu trong tay nhận được 2 đơn vị “Tinh Nhuệ” nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, nhưng 2 đơn vị này vẫn còn chưa đặt chân đến cứu nguy An Lộc, và nếu không may, để An Lộc thất thủ trước khi Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đến tham chiến, thì Thủ Đô Sài Gòn sẽ bị đe dọa.

Vì lẽ đó, Tướng Minh trình trước Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, đệ trình xin chấp thuận tăng cường cho Chiến Trường Quân Khu III, thêm ít nhất 1 Sư Đoàn, để làm vòng đai an toàn cuối cùng phòng thủ cho Thủ Đô Sài Gòn.

Việc tăng phái Sư Đoàn 21 Bộ Binh thuộc Quân Đoàn IV, cho Quân Khu I hay Quân Khu III được Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thảo luận trong bầu không khí thật “cẩn trọng”.

Trước tiên, Tổng Thống Thiệu muốn nghe ý kiến của Vị Tư Lệnh Quân Đoàn 4/ Quân Khu IV. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng phát biểu:

Tôi đề nghị tăng phái Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho Quân Đoàn 3, với hai lý do :

– Thứ Nhất là Sư Đoàn 21 Bộ Binh vừa thành công với cuộc hành quân tìm và diệt địch ở rừng U Minh, khí thế đang dâng cao, và đặc biệt Sư Đoàn 21 rất thiện chiến trong những cuộc hành quân di động.

– Thứ hai, Sư Đoàn 21 đã từng được chỉ huy bởi Tướng Minh, nên việc đặt Sư Đoàn này trở lại dưới sự điều động và kiểm soát của Quân Đoàn 3 sẽ đem lại sự hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất cho Sư Đoàn”. (2).

Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và Trung Tướng Đặng Văn Quang cũng là những vị Tư Lệnh tiền nhiệm của Sư Đoàn 21 Bộ Binh có vẻ cũng đồng tình với lời phát biểu của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

Đại Tướng Cao Văn Viên, khi còn là Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, từng chỉ huy Sư Đoàn Dù hành quân khắp 4 Vùng Chiến Thuật cũng biết được Sư Đoàn 21 Bộ Binh chuyên tác chiến ở “vùng đồng bằng hay sình lầy” không quen hành quân ở “vùng rừng núi”.

Sau lời Tướng Trưởng, Trung Tướng Đặng Văn Quang có lời “phân tích”: “An Lộc chỉ cách Sài Gòn không đầy 100 cây số, nếu để “thua” tại mặt trận này thì chỉ cần 2 tiếng đồng hồ sau, là xe tăng và bộ binh địch sẽ giẫm nát Thủ Đô Sài Gòn, và THẮNG TRẬN LUÔN. Như vậy dù có giữ được Quân Khu I đi chăng nữa, mà Sài Gòn thất thủ, thì cũng như không!!!”

Tiếp theo lời Trung Trướng Quang, Tướng Trưởng nói tiếp “Nếu được Tổng Thống chấp thuận tăng phái Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho Quân Khu III, tôi sẽ tăng cường cho Tướng Nghi thêm 1 Trung Đoàn, để được tổ chức thành Chiến Đoàn Xung Kich, sẽ tăng thêm phần hiệu quả trong việc thiết lập tuyến an toàn cho Thủ Đô Sài Gòn.”

** (Đến lúc đất nước lâm nguy, mới biết ai là kẻ “Lương đống tôi hiền” của Quốc Gia Dân Tộc).

Tổng Thống Thiệu đã hiểu ý của hầu hết mọi người hiện diện, nhất là những lời phân tich của Trung Tướng Quang, khẳng khái, nói thẳng, là sẽ mất nước nếu để cho An Lộc bị thất thủ.

Tổng thống Thiệu, với vẻ mặt trầm tư, nhìn về phía Trung Tướng Hoàng xuân Lãm, như thầm ngõ ý rút lại lời hứa tăng cường Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho Quân Khu I, và hối tiếc một việc thầm kín bởi thế lực chính trị nào đó, muốn ép dâng Miền Nam cho bọn Cộng Sản Bắc Việt, vào thời điểm 1972.

Cuối cùng, mặt trận An Lộc được đánh giá cao hàng đầu, so với mặt trận Quảng Trị, và Tổng Thống Thiệu đồng ý tăng cường Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho mặt trận Quân Đoàn 3/ Quân Khu III.

Quân Đoàn2/ Quân Khu II do Trung Tướng Ngô Dzu làm Tư Lệnh , trình bày:

“Cho tới hôm nay, theo tin tình báo của Quân Đoàn ghi nhận, có các đơn vị Cộng Quân cấp Sư Đoàn đang xuất hiện trong vùng lãnh thổ Quân Khu II, nhưng chưa thấy phát hiện một chỉ dấu quân sự đe dọa nào. Tuy nhiên, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các Sư Đoàn 22 và 23 trực thuộc cũng được báo động, và sẵn sàng nghênh chiến khi Cộng quân khởi phát cuộc tấn công”.

Tướng Ngô Dzu, được may mắn có vị Cố vấn trưởng tên John Paul Vann, một vị cố vấn tận tâm trong chức vụ, và rất tận tình với người bạn đồng minh Việt Nam Cộng Hoà; Ông chỉ là vị Cố vấn “Dân Sự” (gốc Quân Đội), nhưng lại rất có nhiều quyền uy “ưu tiên” trong việc xin các phi tuần Không Quân Chiến Thuật cũng như Chiến Lược (B.52) khi cần đến. (Sau đó 5 ngày, mặt trận Quân Khu 2 bùng nổ, vào ngày 14 tháng 04 năm 1972).

Sư Đoàn 21 Bộ Binh, do Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư Lệnh, và Chiến Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh, do Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn làm Chiến Đoàn Trưởng, được lệnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, tức tốc cho tập trung quân, được di chuyển ngày lẫn đêm , bằng cả 2 phương tiện: đường bộ, cho những chiến cụ nặng (Pháo Binh và Thiết Vận Xa), không vận cho các đơn vị Bộ Binh đến căn cứ Lai Khê.

Chỉ trong vòng 3 ngày, Quân Đoàn IV đã điều động được một đoàn quân hơn 12,000 chiến binh, với tất cả chiến cụ nặng, vượt đoạn đường dài gần 400 cây số, từ các căn cứ hoả lực trong Khu rừng U Minh thuộc Tỉnh Cà Mâu và Chương Thiện (nơi đặt Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 32 và 31 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh), xuyên qua Tỉnh Bạc Liêu (nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, đến Tỉnh Sóc Trăng (nơi đặt Bộ Chỉ huy của Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh), và tại Tỉnh Lỵ Sa Đéc nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, cũng là nơi đặt Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 15 và Thiết Đoàn 1/9, (đang là thành phần trừ bị cho Sư Đoàn) phải xuyên qua hai bến phà (bắc) Cần Thơ và Mỹ Thuận, đến căn cứ Lai Khê thuộc Tỉnh Bình Dương, trong thời gian kỷ lục. Cuộc điều quân “thần tốc” này của Quân Đòan 4/Quân Khu IV được hoàn tất vào ngày 12 tháng 04 năm 1972. Thật không hổ danh là những đại đơn vị có “cơ động tính cao” như Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến vậy.

Tóm lại, lực lượng trừ bị của Quân Đoàn 3/Quân khu III, đang và sẽ có đựợc như sau :


  • Cơ hữu của Quân Đoàn: Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh;


  • Trừ bị của Bộ TổngTham Mưu: Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.


  • Trừ bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà: Sư Đoàn 21 Bộ Binh và Chiến Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 thuộc Quân Đoàn 4.

Tất cả các đơn vị trừ bị cho chiến trường An Lộc được trình diện và được đặt dưới quyền điều động và chỉ huy của Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3/ Quân Khu III.

Về tình hình ĐỊCH, kể từ ngày 08 tháng 04 năm 1972, toàn bộ 4 công trường quân địch (từ 35.000 đến 37.000 quân bộ chiến), dự định đè bẹp quân trấn thủ, chỉ có 3,200 tay súng (đã nhiều mệt mỏi và không có quân số để bổ sung). Tính ra là 1 phải chống đến trên 10. Nhưng không phải vì vậy mà quân Cộng Sản Bắc Việt nghĩ là “nuốt trôi” được An lộc.

Tưởng cũng nên nhắc lại, lệnh của Trung Ương Đảng Bộ Hà Nội là phải chiếm cho bằng được Thị Xã An Lộc trước ngày 20 tháng 04 năm 1972 để ra mắt cái Chính Phủ (bù nhìn) Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, và mục đích tối hậu, dùng An Lộc làm điểm tựa, đánh thẳng vào Sài Gòn, cướp luôn Chánh Quyền Miền Nam Việt Nam Cộng Hoà.

Chỉ còn có 12 ngày ngắn ngủi, (tính từ ngày 08 tháng 04), các đơn vị Cộng quân vẫn chưa phát khởi cuộc tấn công vào An Lộc.

Chiếu theo nguồn tin của một Sĩ Quan thuộc Công Trường 5, được Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà bắt được trong trận tấn công đầu tiên tại mặt trận phía Bắc (ngày 13 tháng 04 năm 1972), khai báo “Công Trường 5 có nhiệm vụ, sau trận tấn công và chiếm cứ Lộc Ninh, kế tiếp làm nỗ lực chính, tấn công An Lộc, thừa thắng cùng với các đại đơn vị khác, tiến đến dứt điểm căn cứ Lai Khê (nơi đang đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Hành Quân Quân Đoàn 3), tấn chiếm luôn Tỉnh Bình Dương, và mục tiêu cuối cùng là Thủ Đô nước Việt Nam Cộng Hoà (Sài Gòn).

Dự tính là như thế, trong khi thực tế, sau khi Công Trường 5 chiếm cứ quận Lộc Ninh, phải mất cả tuần lễ vẫn chưa xuất phát được để tấn công vào An Lộc, CT Bình Long và CT 9 đang chờ đợi ở hai mặt Đông Tây, Công Trường 7 đã hoàn thành các ổ phục kích (các chốt kiền) để chận đoàn quân tăng viện Việt Nam Cộng Hoà từ phía Nam tiến dọc theo Quốc Lộ 13 lên giải vây cho An Lộc.

Công Trường 9, dường như được dùng làm thành phần trừ bị của Quân Đoàn Cộng Sản Bắc Việt, dùng cho nỗ lực, tiếp tục tiến chiếm thị trấn An Lộc.

Theo kế hoạch của Địch, chúng sẽ sử dụng hai Công Trường 5 và Bình Long làm nỗ lực chính để tiến chiếm An Lộc, nhưng vẫn chưa sẵn sàng để tấn công, vì những lý do sau đây:

a/ Một Trung Đoàn của Công Trường Bình Long đã bị thiệt hại khá nặng trong trận phục kích ngăn chận Chiến Đoàn 52 (-) Bộ Binh ở căn cứ Hoả Lực cầu Cần Lê vì các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã chiến đấu rất dũng mãnh, đánh bật nhiều đợt xung phong biển người của địch, cộng thêm sự ngăn trở do phi pháo của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và đồng minh Hoa Kỳ trong suốt những ngày giao chiến.

b/ Công trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, sau khi chiếm được Lộc Ninh, phải lo chỉnh đốn lại hàng ngũ, tái bổ sung quân số, nhất là lo vơ vét chiến lợi phẩm và tài sản của dân chúng, đã tiêu phí thời gian cả tuần lễ.

c/ Tiếp theo sau và liên tục, do Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh “chỉ điểm” gần như chính xác các đường tiến quân, các vị trí pháo của địch, cho Không Quân Chiến Thuật cũng như Không Quân Chiến Lược (B.52) oanh kích và oanh tạc, với hằng trăm phi tuần và phi vụ B.52 trên đầu quân địch. Có nhiều tiếng nổ phụ liên tiếp nhiều tiếng đồng hồ được nghe thấy ngay từ trong Thị Xã, chứng tỏ Không Quân đồng minh Hoa kỳ đã đánh trúng các kho đạn của các giàn pháo hay hoả tiễn hay là các kho đạn tiếp liệu của địch quân. Cho nên các đơn vị khác của Cộng quân phải đành chịu chờ đợi.

anloc_chuong4-2

5 . TRẬN TẤN CÔNG LẦN THỨ NHẤT
( Sáng ngày 13 tháng 04 năm 1972)

MẶT TRẬN PHÍA BẮC AN LỘC:

Vào đêm 12 tháng 04 năm 1972, Cộng quân mở trận mưa pháo, tập trung vào các địa điểm: Bộ Chỉ Huy (cũ) của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Bộ Chỉ Huy của Tiểu Khu Bình Long, và dọc theo vòng đai phòng thủ tuyến mặt Bắc. Ước lượng có trên 8,000 quả đủ loại, pháo từ đầu hôm cho tới hết suốt đêm đến rạng sáng ngày 13 tháng 04 năm 1972, với mục đích tiêu diệt các Bộ Chỉ Huy đầu não trước, (riêng tại Bộ Chỉ Huy tiền phuơng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh (cũ) của Tướng Hưng đã bị trúng trên 1,000 quả pháo đủ loại nhiều nhất là đạn pháo 130 ly. Hầm bị sụp đổ tan nát, không có bị thiệt hại về nhân mạng); tác dụng kế tiếp là gây thương vong, cũng như uy hiếp tinh thần các chiến binh đang trấn thủ tuyến vòng đai phía Bắc, để dọn đường cho chiến xa và bộ binh tấn công trực diện theo chiến thuật “Tiền Pháo Hậu Xung”.

Sau đợt mưa pháo kéo dài trên 12 tiếng đồng hồ, Cộng quân chuyển pháo vào sâu trong thành phố, chừa lại mặt Bắc cho cả Tiểu Đoàn Chiến Xa (T.54 và PT.76) cùng với 4 Trung Đoàn Bộ Binh tùng thiết, chia làm 3 mũi dùi, ồ ạt tấn công vào Thị Xã. Nỗ lực chính vào hướng chính Bắc, và 2 cứ điểm phụ là đồi Đồng Long (600 thước Bắc An Lộc), do Đại Đội Trinh Sát thuộc Trung Đoàn 8 Bộ Binh và một Trung Đội Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long trấn giữ, và sân bay L.19 (300 thước Đông Bắc An Lộc), do 2 Đại Đội Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long phòng ngự. Lực lượng tấn công của địch được phối trí như sau: Tại mặt chính Bắc, Cộng quân sử dụng Trung Đoàn 174 và E.6 thuộc Công Trường 5, có thêm 2 Đại Đội chiến xa T.54 thuộc Trung Đoàn Thiết Giáp 203 trợ chiến. Mũi tấn kích Đồi Đồng Long, Cộng quân sử dụng Trung Đoàn 275 của Công Trường 5 và 1 Đại Đội chiến xa hỗn hợp (T.54 và PT.76) thuộc Trung Đoàn Thiết Giáp 203 trợ chiến; mũi tấn kích sân bay L.19, Cộng quân sử dụng Trung Đoàn Thép của Công Trường Bình Long và 1 Đại Đội chiến xa hỗn hợp (T.54 và PT. 76), thuộc Trung Đoàn Thiết Giáp 202 tăng cường cho Trung Đoàn Thiết Giáp 203. (xem sơ đồ số 6).

anloc_chuong4-4

Nơi tuyến phòng thủ phía Bắc do Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh trấn giữ. Chiếu theo lời tường thuật của Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh (năm 1975), cựu Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (1972), Trung Đoàn 8 có những đặc điểm sau đây:

* Trước khi được trực thăng vận vào An Lộc, Trung Đoàn 8 tình cờ tìm thấy trên 2,000 khẩu súng M.72 LAW (Light Antitank Weapon) của Quân Đội Hoa Kỳ còn để lại trong một hầm đạn tại một căn cứ của Mỹ gần quận lỵ Trị Tâm. Đại Tá Trường cho thu gom về, và nhờ Cố vấn Mỹ hướng dẫn và huấn luyện cách sử dụng cho từng tổ khinh binh và từ cấp Tiểu Đội Trưởng đến tất cả Sĩ Quan Trung Đoàn biết cách sử dụng loại súng Phóng Hoả Tiễn cầm tay ”khắc tinh của tất cả các loại chiến xa”.

Khi được đổ quân vào An Lộc, Trung Đoàn 8 Bộ Binh có mang theo tất cả các khẩu M.72 này. Số còn thừa được phân chia cho Trung Đoàn 7 Bộ Binh, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, và ngay tại Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng cũng được trang bị.

Chiếu theo tài liệu, loại súng M.72 khi nổ phát ra một sức nóng rất cao, lên đến 3,600 độ F., có sức công phá làm chảy sắt thép dầy cỡ 2 Inch.

Ngay khi 2 Tiểu Đoàn đầu tiên và Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 8 vừa đến tuyến phòng thủ mặt Bắc, Đại Tá Trường được Tướng Hưng cho biết Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, có chiến xa trợ chiến, đang trên đà tiến từ Lộc Ninh đổ xuống từ hướng Bắc, Đại Tá Trường còn có sự cảnh giác trước, ngoài bộ binh và chiến xa, địch còn mở vài trận mưa pháo trước khi tấn công. Cho nên Ông đã ra lệnh cho tất cả các chiến binh của Trung Đoàn phải tức tốc đào hầm và giao thông hào phải có “NẮP CHE “ chống pháo. Ông phối trí lực lượng 2 Tiểu Đoàn án ngữ ngay tuyến phía Bắc, cạnh Quốc Lộ 13.

Đại Tá Trường còn chỉ thị cho Sĩ Quan Pháo Binh (tăng phái) liên lạc với Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh (đang trú đóng tại An Lộc) thiết kế một “Tuyến hoả tập Pháo Binh tiên liệu” dọc theo Quốc Lộ 13, cách thành phố 1.500 thước về phía Bắc, và trình với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 xin ưu tiên hoả lực không yểm cho mặt phòng thủ phía Bắc của Trung Đoàn 8, khi hữu sự.

Tiếp theo, vào ngày hôm sau (12 tháng 04 năm 1972), trực thăng vận đổ thêm Tiểu Đoàn còn lại của Trung Đoàn và Đại Đội Trinh Sát, được dùng làm lực lượng trừ bị cho Trung Đoàn, bố trí chiều sâu, dọc theo những cao ốc, đúc bằng Ciment cốt sắt, chạy dài theo Đại Lộ Ngô Quyền (cũng là Quốc Lộ 13 chạy xuyên qua thành phố). Riêng Đại Đội 8 Trinh Sát được điều động lên trấn thủ “Tổng tiền đồn” (Đồi Đồng Long), tiếp tay với Trung Đội Địa Phương Quân (không đủ quân số) của Tiểu Khu Bình Long đã trấn đóng từ trước.

* Trong số 2,500 quân của Trung Đoàn 8 được đổ vào An Lộc, có 400 chiến sĩ gốc là “Lao Công Đào Binh” (cũng là những chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, gồm đủ mọi cấp bực, nhiều nhất là Binh Sĩ và Hạ Sĩ Quan, đã vi phạm kỷ luật như đào ngũ, hành hung cấp chỉ huy, v.v… đủ mọi thành phần trong các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, gom từ các Trung Tâm Trừng Giới, rồi phân phối lại cho các đơn vị tác chiến cấp Sư Đoàn để dùng vào việc tạp dịch lao công, ”không được trang bị vũ khí”. Vào trung tuần tháng 04 năm 1972, Sư Đoàn 5 Bộ Binh được Bộ Tổng Tham Mưu phân phối cho 400 Lao Công Đào Binh, để chia đều cho các Trung Đoàn Bộ Binh cơ hữu. Trong thời điểm này, chỉ còn duy nhất có Trung Đoàn 8 Thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh chưa được tham chiến, nên phòng Tổng Quản Trị Sư Đoàn (sau khi hội ý với Tướng Hưng) cho lệnh chuyển bổ sung hết các Lao Công Đào Binh cho Trung Đoàn 8 theo vào An Lộc.

Khi trận chiến quyết liệt khởi diễn vào ngày 13 tháng 04 năm 1972, Đại Tá Trường, Trung Đoàn Trưởng, chứng kiến một vài anh em Lao Công Đào Binh, bị trúng miểng pháo tử thương, trong lúc trong tay không có một tấc sắt để phòng thân, thật là tội oan uổng và bất công cho vong linh những người quá cố. Ông liền có quyết định táo bạo, không cần biết những sự gì có thể xẩy ra sau này. Đại Tá Trường cho họp các Lao Công Đào Binh để gợi ý “trang bị vũ khí” và khich động tinh thần. Tất cả anh em Lao Công Đào Binh đếu đồng ý tiếp nhận vũ khí để họ có cơ hội cùng các chiến binh của Trung Đoàn 8 Bộ Binh sát cánh chống chọi quân thù Cộng Sản. Như vậy là Trung Đoàn 8 có thêm 400 tay súng gan lì, hăng say trong việc đánh cận chiến, và vác M.72 đi lùng tăng địch khi tình hình chiến sự căng thẳng sau này.

* Người xưa có câu : “Phép Vua thua lệ làng”, người chỉ huy tại mặt trận có toàn quyền ứng biến theo nhu cầu và tình thế, bất chấp câu nệ vào huấn thị, hay ”lệnh Vua” (Bộ Tổng tham Mưu), đã được ấn định từ trước.

Sau trận chiến, số chiến binh gốc Lao Công Đào Binh đã tử trận hết 150, 150 khác bị thương, chỉ còn 100 chiến sĩ may mắn còn được lành lặn, và sau đó Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 liệt kê danh sách: Số Tử Sĩ đều được truy thăng lên 1 cấp, số Thương tích kể cả an toàn cũng được vinh thăng một cấp kèm theo Anh Dũng Bội Tinh, nhất là được nghị định của Bộ Quốc Phòng cho ân xá và phục hồi nguyên phương vị cũ (với cấp bực mới). (3).

Cùng một chiến pháp này, sử sách có ghi, vào năm 694 trước Công Nguyên, vị Vua trẻ Nước Việt (U Việt) bên Tàu, tên là Câu Tiễn, đã sử dụng 3,000 tù tử tội, xông thẳng vào trung quân của Vua Ngô là Hạp Lư, có đến 30,000 quân và tướng sĩ. Các tù tử tội đã đánh một trận quyết liệt, phá tung 3 vạn quân Ngô tan hoang bỏ chạy, để lại chủ soái là Vua Hạp Lư, các tướng lãnh khác phải vất vả liều mình xông vào cứu giá Vua thoát hiểm trong gang tấc trên chiến địa. Vua Hạp Lư cũng phải trả một giá rất đắt, bằng chính sinh mệnh của mình sau khi lui quân về đến Ngô Quốc, vì vết thương ở chân không được chữa trị kịp thời.

Các tù tử tội vào thời xa xưa đó, trước khi được xung quân vào trận, được Vua Việt khích lệ lòng quân “Cố gắng đánh thắng trận, không những được ân xá án tử, mà còn được cấp thưởng cho tiền bạc, ruộng vườn canh tác hay trồng trọt sau khi chiến thắng trở về”.

Còn về 400 Lao Công Đào Binh ở Chiến trưòng An Lộc, vì lẽ sinh tồn, thà chết “Vinh Quang” ngoài chiến trường, lại còn có dịp giết quân địch, và nếu còn sống sót, thì sẽ được phục hồi “danh dự”, được vinh danh là người chiến sĩ anh hùng “Tử thủ An Lộc”, nên tất cả 400 tay súng gốc Lao Công Đào Binh đã trở thành những chiến binh “Ưu Việt” của Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ binh Việt Nam Cộng Hoà.

Từ xa, cách tuyến phòng thủ khoảng 3 cây số về hướng Bắc, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã nghe được tiếng động cơ của chiến xa, và từ từ nghe thấy tiếng nghiền của xích sắt và hình dáng của đoàn chiến xa địch. Mọi người đều hồi hộp theo dõi và chờ đợi từng bước tiến của quân địch. Họ nhìn lại khẩu súng M.72 bên mình, không biết lợi hại ra sao?? Nhưng việc gì đến rồi cũng phải đến.

Từ trên nóc sân thượng của tầng lầu hai, Đại Tá Mạch Văn Trường đặt ống nhòm theo dõi từng bước tiến của bộ binh và chiến xa địch đang tiến lần xuống, cho đến khi nhận thấy đoàn chiến xa và bộ binh địch lọt vào trong “trận địa pháo”, Đại Tá Trường ra lệnh cho Pháo Binh bắt đầu “tác xạ”, 8 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly của Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh vẫn còn sử dụng được thi nhau nhả đạn (Đạn xuyên phá chống chiến xa, đạn nổ chụp để tàn sát bộ binh địch).

Vì Pháo của “ta” quá chính xác và có hiệu quả cao, một phần bộ binh địch chạy lui trở lại, với hy vọng vượt được ra khỏi “tầm pháo”, đoàn chiến xa địch cũng liền phân tán đội hình và khựng lại, chỉ có 15 chiếc T.54 dẫn đầu tống “GA” giọt đại về phía trước, đằng sau không có bộ binh theo bảo vệ. Chiến xa địch khơi khơi băng ngang qua tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 8 Bộ Binh, và xâm nhập vào thành phố, lọt ngay vào tuyến phục kích của Tiểu Đoàn “thứ ba” của Trung Đoàn 8 trên đường Ngô Quyền. Các chiến sĩ Trung Đoàn 8 dùng đủ loại súng từ trên cao bắn xuống, từ dưới đất bắn xuyên hông. Các xạ thủ đại liên trên chiến xa địch phải vội vàng tuột xuống và đóng nắp pháo tháp lại để tránh đạn từ các cao ốc bắn xuống. Chiến xa địch giờ này chỉ còn lại khẩu đại bác 100 ly nòng dài, khó bề xoay trở, vả lại đã lái lọt vào thành phố, đường xá hẹp, hai bên là cao ốc, lề đường có cống rãnh, không chịu được sức nặng của chiến xa… Chiếc thì sụp rãnh, chiếc thì bị quấn kẽm gai, tiến thối lưỡng nan, lay quay chờ chết.

Binh sĩ của Trung Đoàn 8 Bộ Binh lần lần đâm ra dạn dĩ, vác súng M.72 ra tác xạ, vài quả đầu có chút sai lệch, chiến xa địch “chưa chết”, nhưng càng bắn càng có kinh nghiệm, bắn trúng vào chỗ “nhược”. Chiến xa bốc cháy.

Các chiến sĩ reo hò “Anh Em ơi !! xe tăng địch bị M.72 bắn cháy rồì !!!” Tiếng hô vang dậy, được chuyền nhau qua làn khói bốc ra từ chiến xa địch, cùng các xác cháy của các xạ thủ hay tài xế lái tăng địch vừa nhảy ra khỏi xe, đã làm nức lòng các chiến binh của Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Giờ này họ không còn sợ tăng của địch nữa, mà trái lại còn thích thú, vác M.72 đi lùng tăng địch mà bắn hạ. (tiếng bình dân của Anh Em chiến binh Trung Đoàn 8 gọi là sơi tái).

Kết quả: 12 T.54 địch lần hồi bị bắn cháy, 3 chiếc còn lại do các trực thăng võ trang

“Cobra” của Không Lực Hoa Kỳ, có gắn đấu đạn xuyên phá chống chiến xa bắn hạ.


anloc_chuong4-5
6 . MŨI TIẾN CÔNG TẠI ĐỒI ĐỒNG LONG:

Cộng quân tung Trung Đoàn 174 thuộc Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt và 1 Đại Đội Chiến Xa hỗn hợp T.54 và PT.76 thuộc Trung Đoàn Chiến Xa 203 trợ chiến, cộng thêm 1 Tiểu Đoàn Phòng Không – một lực lượng đông gấp 12 lần, so với quân trấn thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

Các chiến binh Trinh Sát của Trung Đoàn 8 Bộ Binh và Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long đã chống trả rất mãnh liệt, đẩy lui liên tiếp nhiều đợt tấn công (biển người) có chiến xa yểm trợ, và bắn hạ 2 T.54 và 1 PT.76 của địch. Tuy nhiên, vì quân số quá ít, và bị hao mòn dần, nên vị Đại Đội Trưởng Trinh Sát gọi trình cho Đại Tá Trường về tình trạng hiện hữu. Đại Tá Trường cho lệnh rút lui trở về tuyến phòng thủ chính của Trung Đoàn ở mặt Bắc, và sau đó được điều động về làm thành phần trừ bị cho Bộ Chỉ huy Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Đại Đội Trinh Sát 8 đã mang về được đầy đủ các Chiến Sĩ đã hy sinh và bị thương kể cả Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long. Cuộc triệt thoái được hoàn tất vào đêm 13 rạng ngày 14 tháng 04 năm 1972.

Sau khi chiếm cứ Đồi Đồng Long (là một trong những cao điểm chiến thuật quan trọng, từ đó có thể quan sát và khống chế mặt Bắc An Lộc, dọc theo Quốc Lộ 13, ngang qua Đồn Cảnh Sát Dã Chiến cạnh Quốc Lộ 13 phía Bắc thành phố, xuống tận khu chợ) và là một vị trí lý tưởng để đặt các ổ phòng không, Cộng quân đặt các khẩu súng cối 82 ly, các khẩu đại bác không giật 57 và 75 ly, pháo và tác xạ vào các vị trí của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đang bố trí trên vòng đai phòng thủ tại mặt phía Bắc.

Đồi Đồng Long được ghi nhận là một trong những cứ điểm quan trọng ở trên cao thế 128 thuớc, có tầm quan sát toàn trận địa phía Bắc thành phố, thiết tưởng lực lượng phòng thủ cần phải chiếm trở lại càng sớm càng tốt .

7 . MŨI TIẾN CÔNG TẠI SÂN BAY L.19:

Hai Đại Đội Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Bình Long kháng cự mãnh liệt với Trung Đoàn “Thép” của Công Trường Bình long, có Đại Đội Chiến Xa của Trung Đoàn 202 yểm trợ, phần vì kho đạn bị nổ, các kho chứa quân nhu bị cháy, bộ binh và chiến xa địch cứ ố ạt tràn vào, bị địch đánh xuyên thủng và chia cắt nhiều mảnh, cuối cùng, đơn vị Địa Phương Quân đã bị tràn ngập tan hàng, tần số liên lạc bị cắt đứt sau hơn 2 giờ giao tranh. Một số chiến sĩ Địa Phương Quân còn lại tự động lui về nhập chung với Trung Đoàn 8 Bộ Binh tiếp tục chiến đấu, ngăn chận địch.

Hai cánh quân địch đã thành công tấn chiếm Đồi Đồng Long và Sân Bay L.19, nhưng cũng không dám tiến lên thêm, vì nhận thấy cánh quân tấn công mặt chính đang bị khựng lại.

Trong khoảng thời gian ngắn, các chiến sĩ Trung Đoàn 8 củng cố lại tuyến phòng thủ. Trong khi các chiến sĩ Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 8 Bộ Binh đang lùng và thi đua bắn hạ chiến xa địch, cháy nằm la liệt trên đường Ngô Quyền, hai Tiểu Đoàn ở tuyến phỏng thủ chính cũng lấy lại tinh thần, và tất cả mọi người đều biết, loại vũ khí M.72 đích thực là loại “khắc tinh” của chiến xa địch, và chuẩn bị sẵn sàng đem ra sử dụng trong những giờ phút sắp tới, dàn lại thế trận, chờ đợi quân địch.

Về phía Cộng quân, sau khi không còn liên lạc được với với bất cứ chiến xa nào đã chạy lọt vào thành phố, nhất là khi nhìn thấy những cụm khói đen bốc lên từng cụm phía trước, viên chỉ huy mặt trận đã đoán biết sự tình như thế nào rồi.

Chỉnh đốn lại đội ngũ, dàn lại đội hình (chiến xa và bộ binh), rồi giở lại “tuồng” cũ, gọi pháo giập thêm khoảng 3,000 quả nữa trưóc khi ra lệnh cho chiến xa và bộ binh tiếp cận, mở đồng loại 3 mặt giáp công vào tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 8 Bộ Binh và vào một phần ranh giới của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân ở phía Đông Bắc thành phố.

Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 8, trách nhiệm khu tuyến phòng thủ phía Tây Bắc (cánh trái) Quốc Lộ 13, phải chống trả với cả 1 Trung Đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt, từ Đồi Đồng Long đánh xuống có chiến xa yểm trợ; đại bác 100 ly của các chiến xa, đại liên 50 ly, M.72 và súng tự động của đôi bên thi nhau nổ dòn như pháo Tết. Chiến xa địch thi đua nhau cháy. Kết quả, Tiểu Đoàn 1/8 Việt Nam Cộng Hoà không ngăn nổi “cơn bão lốc”, và quân địch tràn tới tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 2/8. Trước tình thế đó, Đại Tá Trường liền điều động Tiểu Đoàn 3/8 đến tăng viện, và chận đứng được mũi dùi tấn công của địch quân. Cuối cùng, tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 8 Bộ Binh phải lui về phía Nam thành phố. Thêm một số chiến xa địch bị bắn cháy, nằm lật nghiêng trên các giao thông hào, hầm hố của quân trấn thủ, một số cán binh bộ chiến của Cộng Sản liền “bám trụ” tại chỗ.

Tiến công được tới đây, Công Trường 5 Cộng sản Bắc Việt khựng lại, một số bộ binh và chiến xa còn lại không dám liều lĩnh tiến sâu thêm nữa.

Chiều dần đổ xuống, màn đêm bao phủ trận địa đầy dẫy xác chết đôi bên. Thương binh Việt Nam Cộng Hoà còn được đồng đội di chuyển về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn cho y sĩ điều trị, còn cán binh Cộng sản thì nằm chịu trận rên la giữa trận tiền còn nặc mùi thuốc súng.

Tiếp diễn qua ngày hôm sau (14 tháng 04 năm 1972), tiếng rên la thương binh Cộng Sản bớt dần đi. Quân Cộng Sản đã bám trụ được gần phân nửa diện địa phía Bắc thành phố, còn chiến xa thì không thấy xuất hiện trên trận địa phía Bắc.

Mỗi khi vừa im tiếng súng, Cộng quân giở lại tuồng cũ, cho lệnh pháo bừa bãi vào trong thành phố, bất kể trúng vào Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà hay là cán binh Cộng Sản Bắc Việt vừa mới bám trụ (xin đọc câu chuyện ngắn được trích trong quyễn hồi ký của Trung Úy Lê Văn Mạnh, Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 8 Bộ Binh,

“….sau khi được Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh cho toàn thể Tiểu Đoàn di chuyển lên tuyến đầu để tăng viện cho hai Tiểu Đoàn Bạn đang quần thảo với quân địch, và đang lui dần về phía Nam, chúng tôi nhận thấy có 2 chiếc T.54 địch đang gầm rú, cố ngoi lên vì sụp hố, đang đưa nguyên cái bụng, liền bị một lượt 2 quả M.72 khịt ra từ các chiến binh của Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Chiến xa địch tức thì bốc cháy, các xạ thủ và tài xế trên chiến xa địch vội nhảy thoát ra ngoài, tìm đường tẩu thoát, liền bị các chiến sĩ Tiểu Đoàn 3/8 tức thời bắn hạ. Anh Em hăng máu, vác súng khơi khơi tiến lên, quên lửng bộ binh địch đáng bám trụ cận kề; chúng xã AK tác xạ, một vài Chiến Binh phải bị hy sinh và bị thương tích.

Địch thấy các chiến binh “Mới” đến đánh hăng quá, liền bỏ hố, chạy lui trở lại. Nhờ vậy mà cả 3 Tiểu Đoàn 1, 2, và 3 thuộc Trung Đoàn 8 Bộ Binh có cơ hội chận đứng được Cộng quân, trên một lằn ranh cố định.

Cho đến đêm 16 tháng 4 năm 1972, Biệt Cách Dù tiến lên tiếp ứng, quét địch ra khỏi vòng đai ½ phía Bắc Thành Phố.

anloc_chuong4-6

anloc_chuong4-7

8. TRẬN TẤN CÔNG LẦN THỨ HAI
( Ngày 15 Tháng 04 năm 1972)

MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG AN LỘC :

Kiểm điểm lại tình hình lúc khởi phát cuộc tấn công của địch quân vào mặt phía Bắc thành phố An Lộc, Cộng quân xua toàn bộ Công Trường 5, cộng thêm 1 Trung Đoàn của Công Trường Bình Long. Cộng quân nghĩ rằng lực lượng phòng thủ chỉ có 1 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân (nhiều lắm là 400 tay súng) của Tiểu khu Bình Long trấn thủ thì không thể nào đương cự và cản nổi sức tấn công mãnh liệt của đoàn 12,000 quân bộ chiến có cả gần 100 chiến xa yểm trợ.

Nhưng Cộng quân không ngờ khi xáp trận mới vỡ lẽ ra đã chạm trán với một lực lượng “chính quy” (Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh), hùng mạnh hơn nhiều so với các lực lượng của Tiểu Khu Bình Long như “bản điều nghiên trận liệt”. Trung Đoàn 8 thuôc Sư Đoàn 5 Bộ Binh, với 2,500 tay súng, trong tay lại có loại vũ khí bắn cháy chiến xa, với các xạ thủ đầy nhiệt huyết gan lì. Viên Tư Lệnh Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, khi được báo cáo từ cánh quân tiến chiếm Đồi Đồng Long, và mất liên lạc với đơn vị 15 chiến xa chạy lọt vào thành phố, thì mới nhận biết có gì “bất trắc” cho các đơn vị mình, ngoài dự định không giống như kế hoạch đã thiết kế, nên tâm tư bị giao động, quyết định không dứt khoát, khi thì cho lệnh lui quân, khi thì cho dừng, lúc lại xua quân đánh ván bài liều.

Sáng sớm ngày 15 tháng 04 năm 1972 cánh quân từ phía Đồi Đồng Long (Trung Đoàn 272 thuộc Công trường 5), có chiến xa trợ chiến, tiến đánh và tràn ngập Tiểu Đoàn 1/8 Việt Nam Cộng Hoà, thừa thế xuyên đến Tiểu Đoàn 2/8. Cánh quân chính diện (có viên Tư Lệnh Công Trường phía sau) gom quân tập trung, xắp xếp lại đội hình, đồng loạt tấn công thêm một lần nữa. Còn Trung Đoàn Thép thuộc Công Trường Bình Long, vẫn ì ạch, chưa dám tiến gần tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân, cho đến khi được tiếp giáp với 2 Trung Đoàn còn lại của Công Trường Bình Long di chuyển đến từ hướng Đông, mới cùng nhau mở cuộc tấn kích thẳng vào ngay tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.

Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân là lực lượng trừ bị rất thiện chiến của Quân Khu 3, từ Tỉnh Tây Ninh, được trực thăng vận vào An Lộc ngày 07 tháng 04 năm 1972, với 3 Tiểu Đoàn 31, 36 và 52. Quân số tham chiến được 1,500 chiến sĩ các cấp, do Trung Tá Nguyễn Văn Biết chỉ huy. Liên Đoàn này đã từng quần thảo với Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt trên chiến trường ngoại biên trong trận” Đam Be” năm 1971.

Ngay ngày đầu tiên, khi mới vừa đặt chân đến An Lộc, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân được Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ định dàn quân trấn giữ một tuyến phòng thủ trải dài gần 4 cây số, từ suốt mặt phía Bắc, đến giáp mặt phía Đông, chỉ với 2 Tiểu Đoàn 31 và 52. Còn Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân, được lệnh phải tổ chức tuyến phục kích ngăn chận địch cách Tỉnh lỵ 1 cây số về phía Đông, dọc theo con lộ từ xã Quản Lợi (Phi Trường Quản Lợi), dẫn vào Thị Xã An Lộc. Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà, do Thiếu Tá Tống Viết Lạc chỉ huy, phải đương đầu với 2 Trung Đoàn quân địch có chiến xa trợ chiến, đã anh dũng đánh vùi nhiều đợt với địch quân, cuối cùng cũng bị địch chia cắt làm đôi: Một nửa bị đánh dạt ra tận chân Đồi Gió. Bộ Chi Huy Tiểu Đoàn và lực lượng còn lại bị đẩy lùi trở lại tuyến phòng thủ phía Đông của Liên Đoàn… Thiệt hại khá trầm trọng. (xin mời Quý Đọc Giả đọc một đoạn trong tập hồi ký của Đại Úy Đồng Kim Quan, Đại Đội Trưởng Đại Đội 4 Thuộc Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân, là một nhân chứng sống, tường thuật lại như sau :

“ 10g00 sáng hôm sau, ngày 07 tháng 04, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân từ Tây Ninh đến An Lộc bằng trực thăng HU1B.

12g00, Tiểu Đoàn 36 di chuyển về hướng phi trường Quản Lợi, ra khỏi phía Đông An Lộc 1 cây số, tụi tôi chạm địch. Theo tin tình báo, lực lượng quân Bắc Việt là Trung Đoàn 275 Công Trường 9. Tiểu Đoàn 36 nhận được lệnh giữ con đường này, và án ngữ đường vào An Lộc.

Mối lo ngại chính bây giờ là dân chúng, sinh mạng họ không cho phép Pháo, Phi Pháo yểm trợ tối đa. Bọn Việt Cộng chắc rõ nhược điểm này của chúng ta, nên chúng khai thác triệt để. Mắt tôi dại hẳn, khi thấy những người dân liều lĩnh chạy ra khỏi vòng chiến, bị Việt Cộng bắn ngã sấp mặt về trước.

Thiếu Tá Tống Viết Lạc, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 36, tức tối:

– Quân dã man, chúng nó lấy dân làm “MỘC” để đỡ đạn mình đây mà !!

Gương mặt Ông cau lại, chiến đấu bên cạnh Ông nhiều, tôi biết Ông sắp sửa có quyết định. Mỗi cấp chỉ huy đều có một lối quyết định riêng. Thiếu Tá Lạc luôn luôn có quyết định đúng lúc. Ông quay lại người hiệu thính viên cầm máy:

– Gọi “Gà cồ” bảo tụi nó “gáy” đi ..

Mặc dù biết trước, tôi vẫn sững người trước quyết định đột ngột này, vì hàng ngàn dân còn đang kẹt lại trong đó .. Tôi ấp úng:

– Thưa Thiếu Tá!!

Giọng nói Thiếu Tá Lạc lại vang lên thật bình thản!!

– Gọi Pháo Binh, nhưng dặn chỉ bắn” đạn khói” mà thôi.

Tôi chợt hiểu, biết địch rất sợ pháo, Ông cho Pháo Binh bắn đạn khói, lợi dụng cơ hội địch trốn pháo, dân sẽ thoát ra… Đã có tiếng “Depart” rít lên nghe rõ mồn một. Vài phút đồng hồ sau, chiến trường nghiêng ngửa rõ rệt.

Dân chúng tại Quản Lợi đã chạy được ra gần hết; chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ ở giai đoạn đầu “Giải thoát cư dân”.

Án ngữ đường vào An Lộc của Việt Cộng, là giai đoạn sau của Tiểu Đoàn 36, trong những ngày kế tiếp: 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14 tháng 04. Quản Lợi vẫn nguyên vẹn, mặc dù 24/24 giờ, đều đụng địch. Hình như tử thần đang lảng vảng đâu đây??

Ngày N+1, sau 5 ngày thất bại, Việt Cộng nhất quyết nhổ cái gai Tiểu Đoàn 36 bằng chiến thuật biển người, đánh vào 3 mặt Bắc, Đông và Tây, áp lực rất nặng, phòng tuyến hai bên chỉ cách nhau 30 thước. Đợt tấn công đầu, chúng nó lao vào như những con thú điên, được chích thêm thuốc kích thích. Những ổ đại liên, những khẩu M.16 “tự động” ở tuyến đầu làm việc rất đắc lực, làm chúng không tiến lên được. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng lầu bầu:

– Đánh nhau với lũ điên này bực cả mình, chắc chúng nó “điếc” cả rồi .. đâu có sợ súng??

Áp lực địch trước mặt vẫn còn nặng, tôi đưa ý kiến với Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng xin điều chỉnh cho Pháo Binh bắn yểm trợ cách quân Bạn 30 thước.

Đây là một mạo hiểm lớn nhất của tôi trong gần 10 tuổi lính …Trợt một ly ông cụ là…cõng rắn cắn gà nhà!!! Tim tôi bóp lại, khi nghĩ đến điều đó .. Thiếu Tá Lạc ưng thuận sau một phút nghĩ ngợi .. Tôi mím chặt môi, nâng máy truyền tin vô tuyến lên điều chỉnh … Ầm …Ầm …Ầm …

Xác địch bị hất tung lên ngang tầm mắt, tôi ngồi bệt xuống đất, những giọt mồ hôi hai bên trán, nhỏ xuống thoải mái .

Tiếng Thiếu Tá Lạc loáng thoáng:

– Đẹp lắm …đẹp lắm ..

Sau hơn 10 tràng pháo nổ, bên kia tuyến của địch quân bổng nhiên ngừng bắn, cái im lặng thật là ngột ngạt.. Năm, rồi mười phút trôi qua mau chóng, từ từ chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ ì ầm đang tiến dần về huớng chúng tôi. Rồi lần lần hiện ra những chiến xa của địch, tất cả các chiến sĩ Biệt Động Quân đều chuẩn bị các khẩu M.72, yên lặng nằm chờ phục bên đường, tinh thần không nao núng, mà trái lại còn cảm thấy thích thú khi nhìn thấy chiến xa địch tiến gần.. 50 thườc. .40 thước… rồi 30 thước…. Các khẩu M.72 thi nhau nổ, các cụm khói đen bốc ra từ chiếc T.54 dẫn đầu. Bị cú bất ngờ.. 2 chiếc dẫn đầu bị bắn cháy, còn lại 8 chiếc sau quay đầu bỏ chạy, không dám bắn trả, dù rằng một quả. Bên cạnh chiến xa, không thấy có bộ binh tùng thiết. Chính nhờ điểm này mà chúng tôi mới biết được rằng bộ binh và thiết kỵ của quân Cộng Sản Bắc Việt không được phối hợp để yểm trợ cho nhau… Thua keo này bày keo khác.. Nửa giờ sau, chiến xa lại dàn hàng ngang, theo sau lố nhố bộ binh, tiếng súng lại nổ, M.72 được bắn ra hằng loạt, quân địch đông như kiến .. T.54 thi nhau cháy, tạo ra một cảnh tượng hỗn loạn, đánh giáp lá cà giữa Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân và khoảng 2 Trung Đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt, trong đó theo lời của một tù binh địch khai báo, có cả Trung Đoàn 171 của Công Trường 9 tham dự trong trận đánh này.

Cùng thời điểm, đêm 15 rạng 16 tháng 04, Cộng quân tiếp tục tràn ngập Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà, một số chiến sĩ lui về được đến tuyến phòng thủ chánh của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, đang bố trí trên vòng đai phòng thủ Tỉnh lỵ, một số khác bị địch đánh bạt ra tận chân đồi 169 ( khoảng 4 cây số Đông Bắc An Lộc). Cho đến buổi chiều ngày 16 tháng 04, họ gặp được Biệt Cách Dù dưới chân đồi 169, 47 chiến sĩ thuộc Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân này được tháp tùng với Biệt Cách Dù, trở về nhập lại với Tiểu Đoàn 36 đang trên tuyến phòng thủ, cùng với Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân trên tuyến phía Đông thành phố.

Trong suốt đêm 14 rạng 15 tháng 04 năm 1972, Cộng quân gia tăng mưa pháo vào các tuyến phòng thủ (phía Bắc và phía Đông) nhiều nhất là vào vị trí của Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh Việt Nam Cộng Hoà, ước tính trên 4,000 quả đạn pháo đủ loại. Sau khi dứt pháo, bộ binh và chiến xa địch lại ồ ạt tấn công. Lúc bấy giờ, cả 3 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 8 Bộ Binh đã có mặt trên tuyến đầu chiến đấu, chống trả mãnh liệt, chiến xa địch lại thi đua nhau bị bắn cháy, hằng trăm cán binh Cộng quân bị bắn hạ, khiến mũi dùi tấn công mặt phía Bắc bị khựng lại thêm một lần nữa, mặc dù bộ binh quân Cộng Sản lấn chiếm được thêm một phần diện địa phía Bắc Thành Phố .

Về mặt phía Đông, sau khi đẩy lui được Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân, cả 2 Trung Đoàn của Công Trường Bình Long và Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt, có 1 Đại Đội chiến xa T.54 trợ chiến, tiếp tục tấn chiếm vào tuyến phòng thủ của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, buộc Liên Đoàn 3 phải lùi lại tuyến phòng thủ thứ hai.

Trận chiến được kéo dài đến chiều tối, bộ binh Cộng Sản lấn chiếm thêm một phần diện địa phía Đông. Nhưng chúng phải trả một giá rất đắt, trên 2 Tiểu Đoàn Bộ Binh địch bị loại ra khỏi vòng chiến, nhiều chiến xa T.54 và PT.76 bị bắn cháy. (xem sơ đồ số 7).

anloc_chuong4-10

9 . TỔNG KẾT TỔN THẤT ĐÔI BÊN :

ĐỊCH :

Khoảng 4,500 cán binh thương vong
34 chiến xa các loại bị bắn cháy
2 T.54 (bị bắt sống, còn nguyên)

BẠN :

600 Chết, 1,300 bị thương
Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh bị thiệt hại 90 %

DÂN CHÚNG : 500 chết, 1600 bị thương.

10. NHẬN ĐỊNH:

Những nguyên do chính đem đến sự thiệt hại trầm trọng về “nhân mạng” và “chiến cụ“ của Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt bắt nguồn từ những nguyên nhân sau đây:

1. Do nhận định “SAI LẦM” từ bản điều nghiên trận liệt của Quân Đoàn Cộng Sản Bắc Việt về: Vị trí Bộ Chỉ Huy đầu não của Tướng Hưng, (Cộng quân đã tập trung pháo và gửi Đặc Công đến tận nơi để tìm bắt sống Tướng Hưng, nhưng pháo và đặc công đến chỗ KHÔNG NGƯỜI); Lực lượng trấn thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tại tuyến phía Bắc không phải là một thành phần của Trung Đòan 7 thuộc Sư Đòan 5 Bộ Binh hay Biệt Động Quân hoặc Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long, mà là 1 Trung Đoàn Quân Chủ Lực thuộc Sư Đoàn 5 Việt Nam Cộng Hoà với 2,500 quân thiện chìến, trong tay lại có loại vũ khí khắc tinh của chiến xa, (súng phóng Hoả Tiễn cầm tay M.72); địch nghĩ rằng các lực lượng Địa Phương Quân phòng thủ các yếu điểm, như Đồi Đồng Long, mặt chính Bắc, sân bay L.19, sẽ phải bỏ chạy hay buông súng đầu hàng. Nhưng khi va chạm tại những nơi kể trên bị kháng cự và đề kháng rất mãnh liệt, đã gây cho Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt thiệt hại rất nặng nề.

2. Chiếu theo tài liệu trong quyển hồi ký của Thượng Tướng Cộng Sản Hoàng Cầm “Sở dĩ lực lượng Cộng Sản Bắc Việt không thắng được trận An Lộc, nguyên do chính là đã để “MẤT THỜI CƠ”, làm mất đi đà tấn kích. Tướng Hoàng Cầm viết: “Sở Chỉ Huy Miền (đang đóng tại Mi Mốt), chỉ huy bởi Trung Tướng Trần Độ, đã cử Tướng Hoàng Cầm (Tham Mưu Trưởng) đến Lộc Ninh, gặp Trung Tướng Trần văn Trà (Tư Lệnh chiến trường An Lộc), khuyến cáo nên tấn công ngay vào An Lộc (dự định ngày 08 tháng 04, sau 1 ngày chiếm cứ Lộc Ninh). Tướng Trà và các Tư Lệnh các Công Trường không đồng ý, viện lẽ cần phải thu dọn chiến trường, bổ sung quân số, chấn chỉnh lại đội ngũ, tái tiếp tế, và những việc linh tinh khác. Tướng Trà nêu lên trường hợp của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã từng áp dụng trên chiến trường Điện Biên Phủ vào năm 1954, với phương châm: “Phải chuẩn bị cho thật kỹ, và chỉ đánh khi chắc ăn”. Vì lẽ đó cho đến ngày 13 tháng 04 năm 1972, Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt mới khởi phát cuộc tấn công vào An Lộc, (đã trễ mất đi 6 ngày, kể từ khi chiếm được Lộc Ninh).(4)

3. Yếu tố “TÂM LÝ” Sau khi chiếm lĩnh được Lộc Ninh, tinh thần cán binh Cộng Sản lên cao, đến chổ tự mãn và khinh địch, nghĩ rằng sẽ quét sạch lực lượng phòng thủ một cách nhanh chóng và dễ dàng, nhất là tin tưởng vào đoàn chiến xa và các đại pháo 130 ly.

Cổ nhân có câu: “Nếu ai khi thắng mà sinh lòng kiêu, thì khi bại cũng hay dễ nản lòng” và mất đi hết ý chí chiến thắng.

Những cấp Chỉ huy của Việt Nam Cộng Hoà đã nhận thấy rõ các ưu điểm của Địch, những yếu điểm của Bạn, và đã có cách khắc chế đúng lúc và kịp thời, để có cơ hội đem “CHIẾN THẮNG“ về cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà

11. BÌNH LUẬN: VỀ CUỘC TẤN CÔNG LẦN THỨ NHẤT và LẦN THỨ HAI

Cả hai đợt tấn công vào ngày 13 và 15 tháng 04 năm 1972: Cộng quân áp dụng chiến thuật TIỀN PHÁO (mưa pháo), HẬU XUNG (biển người), và nhị thức Bộ Binh Chiến Xa.

Bàn về những ưu khuyết điểm và hiệu quả của các chiến thuật này, được lượng giá theo những kết quả thực tế tại chiến trường như sau:

A. Chiến thuật Tiền Pháo (mưa pháo) với mục đích san bằng, hay nói khác đi là muốn tiêu diệt các Bộ Chỉ Huy đầu não của quân trú phòng đồng thời bịt câm các khẩu pháo và tạo Tâm Lý khiếp đảm cho các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, để sau đó dùng số đông (biển người) đè bẹp đối phương. Nhưng kết quả, Cộng quân chỉ đạt được ¼ , không đúng như dự liệu :

Các Bộ Chỉ Huy đầu não: Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Tiểu Khu Bình Long vẫn còn nguyên vẹn. Các chiến binh Việt Nam Cộng Hoà đã có nhiều kinh nghiệm để đương đầu với chiến thuật biển người của quân Cộng Sản, và hơn thế nữa, những pháo đài bay B.52 là khắc tinh của chiến thuật gọi là “nướng người“ này, Cộng quân chỉ dập tắt được các khẩu pháo của Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh Việt Nam Cộng Hoà mà thôi.

B. Nhị thức Bộ Binh và Chiến Xa

Đây là lần đầu tiên, tại chiến trường Vùng 3 ( thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà), mới thấy xuất hiện chiến xa địch, và cũng là lần đầu tiên, địch áp dụng “nhị thức Bộ Binh và Chiến Xa” trên chiến trường miền Nam. Sự thật Cộng quân chưa quen lối đánh “hợp đồng tác chiến”, hay nói khác đi “Bộ Binh chưa biết cách phải bảo vệ Chiến Xa như thế nào”?? Cũng vì vậy mà khi lâm chiến, (bị trúng Pháo của Việt Nam Cộng Hoà), bộ binh địch chỉ biết tìm đường tẩu thoát tránh pháo, bỏ rời chiến xa xông xáo một mình, không ai bảo vệ, nên chiến xa rất dễ bị làm “MỒI” cho các xạ thủ M.72 của quân trấn thủ bắn hạ .

Cục diện từ đó bắt đầu được thay đổi, nhất là về phương diện “Tâm Lý” và ưu thế của các chiến thuật: Cái tâm lý tự cao, khinh thường và ý chí quyết san bằng An Lộc của các cấp cán binh Cộng Sản lúc ban đầu bỗng chốc bị đảo ngược giữa địch và ta. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, từ chổ hoang mang, mất bình tĩnh, đâm ra tự tin, bởi trong tay có được loại vũ khí khắc tinh M.72 diệt được chiến xa địch, lần hồi đi đến chổ tự tin, thích thú, tự động tổ chức thành tổ 3 chiến binh, xách M.72 đi lùng diệt tăng địch. Còn các cán binh Cộng Sản thì trở lại mất tinh thần khi thấy chiến xa của chúng bị bắn cháy. Yếu tố TÂM LÝ, thật sự rất quan trọng, là một nhân tố chính, trong lòng của binh sĩ, cho sự thành bại trên chiến trường.

Trong trường hợp này, yếu tố “TÂM LÝ ĐẢO NGƯỢC“, vào giờ phút sinh tử quyết liệt giữa đôi bên, không một binh gia nào có thể dự đoán trước là nó có thể xãy ra trên chiến trường một cách đột ngột như thế, kéo theo sau sự sụp đổ toàn diện của Quân Đoàn xăm lăng trong chiến dịch Nguyễn Huệ của quân đội Cộng Sản Bắc Việt.

12 . CÂU CHUYỆN TRONG TRẬN ĐÁNH:

Sau đợt tấn công lần thứ nhì – trưa ngày 16 tháng 04 năm 1972, vì dân chúng không có hầm trú ẩn, sống lộ thiên hay dưới các mái hiên nhà, nhất là đồng bào Thượng phải tập trung ở sân ga xe lửa cũ bị trúng pháo thương vong rất nhiều nên các vị lãnh đạo tinh thần các Tôn giáo có quyết định táo bạo, cầm cờ trắng đi đầu hướng dẫn trên 10,000 đồng bào vượt khỏi thành phố đi về hướng Nam dọc theo Quốc lộ 13 hướng về Xã Xa Cam. Chính quyền Tỉnh bó tay trước quyết định của người dân chạy loạn.

Đoàn người vượt đến Ấp Tân Khai thì bị Cộng quân chận lại để thanh lọc, đàn bà trẻ con, các cụ già cho tiếp tục đi, thanh niên đàn ông bị chặn lại – trong số này đa số là các viên chức Xã ấp, nghĩa quân, địa phương quân của Tỉnh Bình Long theo gia đình chạy loạn. Đến ngày hôm sau Cộng quân bỏ quyết định này và chận đuổi tất cả dân chúng bắt trở về Tỉnh, khiến tăng thêm gánh nặng cho lực lượng phòng thủ về vấn đề lương thực, cứu thương cùng những việc khác.

anloc_chuong4-8

anloc_chuong4-9

Dân chúng bồng bế nhau chạy loạn dọc theo QL.13

Một câu chuyện ngắn khác cũng được trích trong quyển hồi ký Trung Úy Lê Minh Hùng, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà:

“Sau khi được Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 3/8 di chuyển lên tuyến đầu để tăng cường cho hai Tiểu Đoàn 1 và 2 đang quần thảo với địch quân, và đang bị áp lực địch phải lui dần về phía Nam, chúng tôi thấy có 2 T.54, đang chỏng gọng gầm rú, vì sụp hố, cố ngoi lên, liền bị một lượt 2 quả M.72 khịt ra từ các chiến binh Tiểu Đoàn 3/8, tức thì bốc cháy, các xạ thủ và tài xế trên chiến xa địch vội mở nắp pháo tháp, nhảy phóc ra ngoài, liền bị các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 3/8 bắn hạ ngay tại chổ. Anh em hăng máu, vác súng khơi khơi đi lùng chiến xa địch để bắn hạ, quên cả Bộ Binh địch đang “ bám trụ” cận kề, chúng xã AK. 47 bắn lại, gây cho một vài chiến sĩ phải hy sinh và bị thương. Địch thấy các chiến sĩ Tiểu Đoàn 3/8 xuất hiện bất thần và đánh hăng quá, nên chạy thối lui trở lại, nhờ vậy, cả Ba Tiểu Đoàn 1, 2, 3 thuộc Trung Đoàn 8 Bộ Binh, được lợi thế chận đứng được địch, trên một lằn ranh cố định, không bên nào lấn chiếm thêm được tấc đất nào.

Dường như đã có 1 Tiểu Đoàn của Cộng quân, đã quá đà tấn kích, theo các chiến xa vừa bị bắn hạ!! Pháo của Cộng quân vẫn nhả đều trên trận địa, tưởng là vùng đất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà ,nhưng pháo lại rơi nhầm vào vị trí của Tiểu Đoàn địch quân, một quả đạn pháo rơi ngay vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn địch kể trên, gây tử thương cho viên Tiểu Đoàn Trưởng và tên Sĩ quan tiền sát pháo binh cùng cán binh mang máy truyền tin ..Một cán bộ khác vội vàng nhảy lên nắm lấy ống nói, gọi thẳng đơn vị pháo từ xa !! tên cán bộ này nói giọng miền Bắc “Đ.m!! bắn nhầm vào đơn vị quân ta rồi!!! ngưng pháo .. ngưng pháo!!”.. Bên kia đầu máy hỏi lại.. cho biết “mã số” của Tiền sát viên và mật số của đơn vị yêu cầu ngưng pháo?? Tên cán bộ này làm sao biết được mã số của Tiền sát viên và mật số của đơn vị, vì mấy nhân vật đó đã đi theo ông Hồ, xuống âm ty rồi, ấp a ấp úng không trả lời được. Bên kia đơn vị pháo của Cộng quân tưởng là đã pháo trúng ngay vào đơn vị Việt Nam Cộng Hoà, và nghĩ rằng quân phòng thủ đã rà bắt được tần số của pháo địch (Cộng Sản Bắc Việt), cho nên mới gọi kêu ngưng pháo. Vì thế thay vì pháo bình thường, lại được chuyển thành pháo tập, bắn liên tiếp nhiều tràng, ngay trên đầu các con cháu ông Hồ, sau nửa giờ pháo, dọn sạch hết cả Tiểu Đoàn Địch kể trên.

(1) Nhật ký hành quân Quân Đoàn 3/Quân Khu III ghi về trận chiến An Lộc

(2) Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh 1972, Tác Giả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, do Trung Tâm Quân Sử Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ phát hành năm 1980.

(3) Lời tường thuật của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, cựu Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1972), nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (1975).

(4)Hồi ký “Chặng đường 10,000 ngày”, tác giả Thượng Tướng Cộng Sản Hoàng Cầm (trang 280 – 281) phát hành năm 2001.

—->Phần I-chương 5

This entry was posted in 2.Một thời để nhớ, Chiến Thắng An Lộc 1972 (Nhóm quân nhân QLVNCH), Người Lính VNCH. Bookmark the permalink.

1 Response to CHIẾN-THẮNG AN-LỘC 1972 : Phần I (Chương 1-5)

  1. dung minh truong says:

    toi co doc mot tai lieu ghi la tran chien an loc 81 ngay 81 chien si biet cach du tu tran vay tai lieu nao dung/?

    Like

Ý kiến - Trả lời