QUÊ NHÀ YÊU DẤU (Nhật Tiến)

CHƯƠNG NĂM

Sau bữa hôm đó, lão Bẩy nằm liệt giường. Lão rất ít khi ốm đau, nhưng đến lúc ngã bệnh rồi thì không thể gượng nổi. Lão biết vậy, nên đã sửa soạn cho mình một cái ổ nương náu. Cái ổ đặt dưới hầm sâu, trong một ngôi nhà gạch mà chủ nhà đã bỏ hoang để di tản lên tỉnh từ hơn một năm nay. Lão đã thực sự cách biệt với đời sống bên ngoài. Tứ chi rời rã. Đầu nặng như đổ chì. Miệng khô đắng như nhá phải bọ chét. Quanh lão, ánh sáng toả xuống mờ nhạt. Mùi ẩm thấp xông lên ngai ngái. Những con muỗi bay vo ve ở bên tai.

Lão có thể với tới lu nước trên đầu chõng. Cạnh đó là hũ gạo rang. Tất nhiên còn có cả một cái bong bóng trâu chứa đầy rượu trắng, môn thuốc chữa trị độc nhất mà lão tin tưởng được.

Men rượu đưa căn hầm tối tăm chạy vòng quanh trước mắt lão. Cơ thể của lão thêm bồng bềnh. Lão thấy mình đi lang thang trong đồng cỏ, chập chờn bước trên những cây cầu khỉ bắc qua lạch nước, ở dưới đó bầy cá đang mở tiệc liên hoan. Xác người trôi lập lờ. Vạt áo rách nát bập bềnh đưa theo sóng nước. Lão cố nghĩ xem là mình đang làm gì, đi đâu. Hình như lão có một nhiệm vụ cần thiết ở trong gò Ông Cả. Lão nhớ đến thằng Tư, thăng On, đến tiếng súng nổ, đến khuôn mặt bạc nhược của thằng Thạch nằm li bì trên chiếc nóp cói, và đến cả bờ vai còm cõi nhô lên một cách khó nhọc của bé Hương khi nó khập khiễng bước đi. Lão tìm ra được nguyên nhân rồi. Lão đã hứa với Hương làm cho nó một đôi nạng gỗ. Đôi nạng lằm bằng thân gỗ bằng lăng có trạm trổ bầy chim, cách bướm. Lão hình dung ra nụ cười rạng rỡ của con bé. Nụ cười có sức tác dụng làm cho lão trở lại yêu đời. Lão sẽ lại có thể cầm được cán dao vẽ nên những bông hoa tươi đẹp, những bông hoa mà dễ hơn mười năm rồi, không có lần nào lão quan tâm đến.

Cơn hôn mê thảng thốt cứ tiếp tục đưa lão đi qua những hình ảnh chập chờn. Thời gian đã trở nên vô nghĩa đối với lão. Hình như đã ba ngày, hình như đã một tuần. Lão không nhớ mình đã thức dậy bao nhiêu lần, tu hết bao nhiêu ngụm rượu, duy chỉ có một điều chắc chắn là lão chưa thấy cần thiết đến một nhúm gạo rang. Trong giấc ngủ, hình như lão nghe thấy tiếng súng lớn. Tiếng súng tuy ở rất xa nhưng cũng đủ làm rung chuyển nền đất bao quanh. Lão muốn có mặt bất cứ ai để hỏi lên một tiếng, nói được một câu. Nhưng lão đã hoàn toàn cách biệt với đời sống bên ngoài. Lão hơi tiếc là không chỉ cho thằng Tư, thằng On biết chỗ lão đã chọn nằm. Chúng nó ở đâu? Trong đầm Tròn, ngoài đồng vắng hay lang thang dưới những lùm cây rậm rịt trong Rạch Bầu.

Những điều lão dự đoán thực sự đã sai lạc cả. Mặt trận bùng nổ lại dữ dội trên mạn Phú Huy từ hai hôm nay. Các vùng quanh đó cũng có những cuộc đụng độ lẻ tẻ.

Chiều hôm trước một trận đánh xẩy ra cách đầm Tròn không đầy năm cây số. Đồng bào gồng gánh di tản đã đi lũ lượt trên quốc lộ. Đứng ở trên đường nhựa nhìn xuống thấy rõ từng cột khói đen bốc lên nghi ngút ở bên kia cánh đồng. Mùi thuốc súng bay lên khét lẹt ở khắp mọi chỗ. Địch rút ra xa hơn. Quân đội theo đà tiến tới. Mặt trận loang ra, và bỏ lại trên những bồn cỏ, trên những lối đi rậm rạp, ở bờ lạch, ở gậm cầu, ở những thửa ruộng nứt nẻ đầy dẫy những dấu tích cháy nám đen, những vỏ đạn đồng sáng loáng và mùi khói cay nồng.

Vậy mà thằng On với thằng Tư vẫn còn lặn lội ở trong đó. Buổi sáng hôm trước, thằng On có sáng kiến rủ thằng Tư đi đặt bẫy cầy hương. Hai con chó hoang này lang thang qua hết giải đồng này đến giải đồng khác. Khi tiếng súng bùng nổ thì chúng nó đang lầm lội dưới một lạch bùn. Cả hai đã bị chôn chân ở đó. Suốt đêm chúng nó được nghe tiếng súng nổ, tiếng người la, có cả tiếng chân chạy rậm rịch. Đến khi ngớt hẳn tiếng súng thì thân mình hai đứa đã gần như lạnh cứng. Thằng Tư lóp ngóp bò lên trước. Nó nằm lăn ra nệm cỏ và tưởng muốn ngất xỉu đi. Thằng On khôn hơn, đi quơ vài nhánh củi nhóm lửa đốt. Hai đứa nhìn nhau khoái chí như thể cái sự còn sống sót sau cuộc giao tranh là một thành tích oai hùng. Cho tới lúc đó chúng mới cảm thấy đói nhừ. Cơn đói làm cả hai bật dậy. Mỗi đứa sục sạo ở một nơi. Nhưng cái mà chúng kiếm được lại không phải củ khoai lang, hay đọt chuối mà lại là một viên đạn thối. Viên đạn lớn như chưa bao giờ chúng được trông thấy. Nó to bằng bắp đùi, sáng loáng như đồ xi và nằm lì lợm ở ngay gốc một cụm xương rồng. Thằng Tư hỏi:

– Mình lấy không?

On rụt lại:

– Thôi đi, chết bỏ xác.

– Đạn xịt mà! Đục ra lấy thuốc làm pháo bông đốt thì số dách.

On lắc quầy quậy:

– Má tao dặn rồi. Đụng vô những thứ đó chết uổng.

Thằng Tư ngán ngẩm nhìn viên đạn một cách tiếc rẻ. Nhưng rồi nó cũng quay đi. Đi được một quãng nó lại gạ gẫm:

– Tao đố mày đạn thối như vậy còn nổ được không.

– Được chớ sao không!

– Láo! Nếu nổ thì nó nổ rồi. Bây giờ là nó xịt. Mày không tin tao cầm lên cho coi.

Rồi không chờ thằng On nói năng gì, thằng Tư quay phắt ngay lại. On hốt hoảng chạy tới chín mười bước, nằm úp sấp xuống mặt đất.

Thấy nó nhát như vậy, thằng Tư càng khoái chí, rích lên cười. Nó túm ngay lấy viên đạn đồng chuyển từ tay này qua tay kia, rồi lại làm trở lại. Viên đạn vẫn ngoan ngoãn như một cục đất hiền từ. Tư tự đắc:

– Đó, mày thấy không. Đâu có làm sao.

Thằng On tò mò mon men trở lại, một lát hai đứa chuyền cho nhau xem một cách tự nhiên như xem một con mèo. Bàn tay của chúng nó thi nhau miết lên vỏ đồng để tẩy đi những vệt khói ám vàng. Chán chê rồi thằng Tư mới đứng dậy nói:

– Về gỡ thuốc ra lấy cái vỏ đồng đem làm bình cắm bông đẹp hết chỗ chê. Mình ráng thử kiếm nữa coi. Đạn thối như vầy thiếu gì.

Hai đứa chạy đi. Chúng nó sục sạo ở khắp mọi chỗ. Nhưng không còn viên nào khác ngoài viên mà thằng Tư ôm khư khư ở trên tay. Tuy vậy chúng nó lại gặp được một vật quí báu hơn là viên đạn. Đó là một con trâu. Con trâu nằm phủ phục ở đằng sau một bụi rậm. Chung quanh nó, máu me đầm đìa. Nó đã bị lạc đạn từ đêm hôm trước. Thằng Tư hỏi:

– Trâu của nhà ai đây?

On lắc đầu:

– Ai mà biết được. Chắc ở trong xóm. Nó sút chuồng rồi chạy ra đây chứ gì.

Tư hạ ngay một lệnh:

– Mình bắt con trâu này.

On phản đối:

– Nó chưa chết mà. Người ta sẽ đi tìm nó. Mình dẫn về uổng công.

Tư ngẫm nghĩ rồi nói:

– Để viên đạn này nổ banh xác nó ra, mình khiêng một đùi về hầm, ăn được cả tháng.

– Sao mày vừa nói là đạn không còn nổ nữa.

– Mày không biết cái gì hết. Để yên thì không sao hết. Nhưng đút nó vô bếp lửa, nó sẽ nổ tung.

– Thiệt vậy sao?

Thằng Tư vênh mặt:

– Sao không thiệt. Chắc chắn là vậy mà. Mày đi kiếm củi đi. Tao sẽ làm cho coi.

Chúng nó vun được một đống củi để ngay cạnh mình con trâu. Con vật tội nghiệp vẫn nằm nghiêng trên bụi cỏ, hai mắt lờ đờ, hơi thở khò khè yếu đuối. Ở trên miệng của nó, dãi nhớt chẩy ra đầm đìa. Lúc đốt lửa lên, thằng Tư ném viên đạn vào chính giữa rồi kéo thằng On chạy thật nhanh xuống một hố sâu gần đó. Cả hai hồi hộp chờ. Năm phút, rồi mười phút trôi qua. Viên đạn quả nhiên là viên đạn xịt. Thằng Tư tức tối nhỏm phắt ngay dậy chạy lại đống lửa. Nó lấy cái que cời những tàn than cho lửa cháy to hơn. Củi khô cháy lép bép. Tiếng nổ nghe vui tai. Tiếng nổ nghe đinh tai. Một tiếng “ầm” nghe long trời lở đất giật sấp thằng On ngã sóng soài trong lòng hố. Phúc đức thay, nó không hề hấn gì.

Nhưng còn thằng Tư với con trâu. Cả hai đều cùng tan xác như những mảnh pháo ròn rã của ngày xuân vào những dịp đồng quê thanh bình.

—>6

This entry was posted in 3.Truyện dài - Tiểu thuyết, Nhật Tiến, Nhật Tiến. Bookmark the permalink.

Ý kiến - Trả lời